Nhom Chin Bon - Hong Duc - Da Nang
Vào khoảng năm 1953, Hà Nội ở trong thời kỳ cực thịnh, phát triển về mọi mặt.
Riêng về những món đồ chơi của trẻ con cũng đã rất nhiều thứ vui mắt, đủ cho mọi lứa tuổi. Có những thứ dành cho học sinh tiểu học. Có loại chế tạo cho lứa tuổi trung học. Đặc biệt là thời Pháp ở Việt Nam, không thấy món đồ chơi nào dành cho người lớn. Có thể giai đoạn đó, đồ chơi là chỉ cốt nhắm vào trẻ con. Còn khi đã trưởng thành, ai cũng bận rộn về những công việc cần thiết cho bản thân và quan trọng cho xã hội.

Sau 20-7-1954,Việt Nam bị chia đôi.
Miền Nam sống trong thái bình, thịnh vượng.
Đầu tháng tám năm 1964 khu trục hạm Maddox của Mỹ đang ở trong vùng vịnh Bắc Việt thì bị tấn công bởi tàu tuần duyên của Việt Cộng. Hai lần tất cả. Lần đầu tiên vào ngày 2-8 và lần thứ nhì ngày 4-8.

Sau biến cố đó, Mỹ bắt đầu đổ quân vào Việt Nam.

Cùng theo với việc này là sự tràn ngập tất cả mọi thứ hàng hóa của người Mỹ. Báo chí, sách vở đủ mọi loại, in rất đẹp và thường rất dầy. Một điểm đặc biệt nữa, tôi để ý ngay là ngoài những món đồ chơi dành cho trẻ em mọi lứa tuổi, lại còn những món đồ chơi cho người lớn. Thí dụ những hộp trong đó có những miếng nhỏ bằng nhựa hay kim loại mà khi lắp lại với nhau người ta có thể có một chiến hạm, một tiềm thuỷ đĩnh, nhiều kiểu máy bay, từ vận tải tới chiến đấu. Những thứ này được treo trong nhà, bầy trên mặt bàn, hay trong tủ kính. Những món này người thì nhờ những bạn bè người Mỹ mua trong PX để được giá rẻ, kẻ thì mua tại mấy chợ trời Mỹ, giá cũng ngang ngửa. Loại chợ trời hàng Mỹ này họp tại ba, bốn nơi trong mỗi tỉnh lớn, hoặc một chỗ nhất định trong tỉnh nhỏ.

Một món đồ chơi tôi cho là mới lạ. Đó là những hộp, trên mặt có in những bức tranh. Thường thường là một hình phong cảnh. Đa số là cảnh núi non, thác nước, sông biển trên đất Hoa Kỳ. Cũng có bức vẽ cảnh sinh hoạt của miền Tây nước Mỹ. Những hoạt động tìm vàng.
Trẻ con người lớn mở những hộp này ra, không thấy bức tranh nào. Chỉ thấy toàn những mảnh vụn nhỏ. Nói đúng ra là bức tranh đã bị cắt bằng máy thành 500, 700 hay cả 1000 miếng. Muốn tạo được một bức đẹp như ở trên nắp cái hộp giấy người ta phải mất nhiều công. Trước hết bầy tất cả những mảnh vụn này ngửa mặt lên, dù lung tung, không theo thứ tự nào trên mặt bàn hoặc là trên sàn nhà. Sau đó ngồi ngó từng miếng. Khởi sự bằng lắp 2 miếng vào với nhau sao cho hợp rồi 3,4, miếng, cho tới hết.

Công việc này là một giải trí đặc biệt cho cả trẻ em lẫn người lớn. Từ vài tuổi trở lên cho đến lúc đã gần đất xa trời. Nói thế có nghĩa là dù sức khỏe yếu đến đâu cũng vẫn tiêu khiển được. Chỉ cần phải có cặp mắt còn thấy được mới có thể tạo nên bức tranh.
Chữ tiếng Anh để chỉ việc này là to do a jigsaw.

Mới đầu thấy hay hay, tôi cũng thử. Tôi không sao lắp được cả. Dù cho chỉ năm, bẩy miếng cũng không khớp vào với nhau được.

Thỉnh thoảng lắm tôi có thấy một vài hộp, trên nắp có hình của những cô đào chiếu bóng ̣(đó là tiếng nôm để gọi những nữ tài tử xinê). Lẽ dĩ nhiên số người thích những nữ tài tử này cũng có, có khi còn nhiều hơn số người thích hình phong cảnh.

                                                                   …

Tôi chưa bao giờ cho là mình sẽ lắp những mảnh hình thành được một bức tranh. Thế nhưng, nay tôi tự nghĩ: mình thử cố lắp những mảnh hình, được vẽ bởi những người khác nhau. Nam có, nữ có, từ những người trong y-giới và cả những ngành khác. Nhưng toàn là người Việt Nam.


Mảnh hình chữ Nhân

Đời sống quân ngũ là nơi có nhiều điều kiện nhất để gặp rất nhiều người với đủ mọi cá tính, để làm bạn. Bạn để vui đùa, bạn đi uống rượu, bạn để đánh bài, bạn trong lúc chiến đấu, vân vân… Nếu một người ở trong quân ngũ một năm, số người quen biết tương đối ít. Nhưng đã đi lính hai mươi lăm năm số lượng quen ắt đếm không kể xiết. Có người sống ¼ thế kỷ trong quân đội, mà cuối cùng chỉ còn liên lạc với ba người. Chẳng phải tất cả những người ông đã biết trong những đơn vị ông từng phục vụ đều đã hy sinh. Cũng không phải đã giải ngũ hết, sống trong môi trường khác, nên ông không liên lạc với nhau được.

Yếu tố chính trong việc này liên quan đến lòng nhân. Xin mời xem một quân nhân, ông Vũ văn Tâm, vẽ lại cảnh này.

…“Bây giờ xin phép được dông dài về ông bạn già mà tôi vừa quý mến vừa khâm phục. Trong suốt cuộc đời lính gần 25 năm, qua nhiều nơi Bắc, Trung, Nam quen biết rất nhiều bạn bè. Nhưng cuối cùng cho đến nay tôi chỉ còn liên lạc với ba người bạn trong đó có một người là bác sĩ Bạch Đình Minh. Có một điều lạ lùng là cả ba người đều gặp gỡ nhau tại cùng đơn vị: trung đoàn 181, Pleiku, nơi quanh năm mùa đông, vào năm 1955, 1956. Tôi xin phép kể chi tiết một chút về cơ duyên đặc biệt đã cho chúng tôi gặp gỡ nhau. Pleiku vào thời đó còn ít người lắm, nhất là người Việt. Đơn vị tôi phần lớn là lính Thượng, không nói rõ tiếng Việt. Họ thường nói tiếng Pháp vì những đơn vị này của Pháp chuyển sang. Trước Bác sĩ Minh là Bác sĩ Đỗ Xuân Giụ và một số bác sĩ nữa, tôi không nhớ hết tên. Anh Giụ cũng đã ở cùng đơn vị với tôi, trong một đơn vị tại khu chiến (secteur) Ninh Giang trước 1954.

Một kỷ niệm và cũng là một ấn tượng về bác sĩ Minh mà tôi không bao giờ quên là một buổi chiều mưa, mà như anh đã rõ, đường xá Pleiku khi mưa thường lầy lội. Tôi đứng cửa nhìn trời, thấy bác sĩ Minh mặc áo mưa đi bộ ngoài đường. Tôi hỏi:

- “Anh đi đâu giữa lúc trời mưa này?”

Bác sĩ Minh đáp:

- “Tôi sang trại gia binh.” 

Tôi nói:

- “Trời gần tối rồi, trại gia binh mãi bên kia đồi, sao không để mai hãy đi?”

Ông đáp:

- “Buổi chiều nay, tôi có khám và cho thuốc một anh lính thượng. Tôi đã dặn dò cách uống, nhưng sợ anh ấy không hiểu rõ, nên phải đến tận nơi xem lại.”

Chỉ một sự việc thế thôi mà tôi thêm cảm mến và kính phục Ông ấy từ ngày đó.”

Vũ văn Tâm.
                                                                   …

Mảnh hình chữ Nghĩa

Thật ra tôi nghe đến tên của ông Bạch Đình Minh từ 1955.

Hiệp định Genève ký vào ngày 20-7-1954, thì tháng 8-1954, anh Trần Xuân Ninh và tôi đã vào tới Sài Gòn. Số người di cư tăng quá nhanh. Chính phủ dùng một bệnh viện đang xây dở dang ở đường Général Lizé cho họ tạm trú. Cả ngàn người trong đó. Ngày nào chúng tôi cũng vào bệnh viện này (sau trở thành Bệnh Viện Bình Dân) để tìm xem có thấy một người bạn hay một thân nhân nào không.
Một hôm anh Ninh thấy một người bạn quen tên là Thái Văn Tùng, trước cũng học Chu Văn An ngoài Bắc, hơn anh Ninh một lớp. Anh Tùng nói, không có ai họ hàng quen thuộc ở trong Nam, và hiện cũng không có chỗ nào để ở. Anh Ninh mời anh Tùng về nhà. Anh Tùng rất cảm động. Chúng tôi ăn cùng mâm. Và buổi tối anh Tùng cũng ngủ cùng một gầm bàn với chúng tôi (Đây là nhà chú ruột tôi, rất đông người, vô cùng chật chội). Anh Tùng có khuôn mặt xương xương, quê ở Nghệ An. Vì thế, nói chuyện với Ninh và tôi rất hợp. Lý do: anh không lạ gì tỉnhVinh, và chúng tôi lại đã sống tại đó một thời gian khá dài. Anh kể, ba má anh giầu có trong làng. Vì thế bị Việt Minh đấu tố đến mất mạng. Anh bỏ trốn.
Anh hơn tôi 5 tuổi. Lúc nào tôi cũng phục anh về cách cư xử với mọi người. Một hôm anh đi đâu chơi về không biết, khoe với chúng tôi rằng, mới gặp lại một ông thầy cũ, dậy anh ở Vinh. Thầy đối xử với anh hết sức ân cần và dặn anh cứ mỗi thứ bẩy, chủ nhật đến chơi với ông. Mỗi lần thăm ông xong trở về, vẻ mặt anh Tùng vui tươi hân hoan như vừa gặp một bậc cao tăng đắc đạo. Anh kể lại những mẩu chuyện liên quan đến mọi đức tính của thầy. Anh bảo thầy tên là Bạch Đình Minh, thần trí khoan hoà, đang học Y Khoa.
Bác sĩ Minh đã có lần mời anh Tùng về nhà ông ở. Nhưng anh Tùng xin từ chối và tiếp tục ở lại với chúng tôi.
Năm 1957, Bác sĩ Minh lên Pleiku làm việc tại Quân Y Viện.

Bác sĩ Minh đã dùng Nghĩa, đối xử với người.
Chín bốn & Bạn hữu
Chín bốn & Bạn hữu
 
Lắp những mảnh hình
                                Trần Xuân Dũng
Dưới đây là một câu chuyện một người khỏe mạnh đi thăm một người bệnh. Thông thường khi một người đang nằm bệnh viện được một người đến thăm, câu chuyện thường là liên quan đến bệnh. Người bị bệnh sẽ tỉ mỉ kể những chi tiết mình bị bệnh trong hoàn cảnh nào. Kế đó, lúc nhập viện, rồi hiện trạng khá hơn hay tồi hơn lúc đầu. Còn người đi thăm phần chính cũng hỏi, xoay quanh những điều vừa kể.
Thế nhưng câu chuyện bác sĩ Phan Ngọc Hà (tức Phan bảo Thư) kể một trường hợp hơi lạ.

“Vốn sinh sau đẻ muộn, tôi chỉ mới nghe tên tuổi của bác sĩ Bạch Đình Minh vào đầu năm 1968 sau biến cố Tết mậu thân. Khi đó tôi đang học lớp dự bị Y khoa (APM) niên khóa 67- 74. Tôi đi thăm anh của một người bạn thân đang được điều trị ở Tổng y viện Cộng Hòa.

Đến thăm anh, anh hỏi tôi có biết bác sĩ Bạch đình Minh, bác sĩ điều trị cho anh không? Tôi trả lời rằng có nghe nói nhưng chưa gặp bao giờ.

Suốt buổi anh chỉ nói về bác sĩ Minh, nào là sự liêm khiết, khiêm tốn, và sự tận tụy đối với thương bệnh binh… Những câu chuyện về gương thanh liêm hay tận tụy của vị bác sĩ do chính anh chứng kiến hay do người khác kể lại. Chuyện bác sĩ Minh chỉ có mỗi một chiếc xe đạp để đi lại.

Anh nói huyên thuyên và tôi chỉ ngồi nghe một cách thích thú về những đức tính tốt của một thần tượng trong nghề nghiệp tương lai của mình đến nỗi khi ra về tôi đã quên hỏi anh về tình trạng sức khỏe, mục đích của lần viếng thăm ngày hôm ấy.”

Bác sĩ Phan Ngọc Hà.


Mảnh hình chữ Lễ

Bác sĩ Hà kể một chuyện khác:

Năm cuối cùng ở trường y khoa tôi có nhiều dịp gặp bác sĩ Minh hơn khi đi thực tập ở trung tâm Y-khoa Gia-Định, bệnh viện Nguyễn Văn Học. Khi ấy cụ đã về làm bác sĩ thường trú của trung-tâm, đảm trách chức vụ nội khoa ở lầu 2. Tôi làm nội trú ngoại khoa ở lầu 1D của bác sĩ Nguyễn Duy Cung. Một hôm có việc lên lầu hai thăm một bệnh nhân gặp cụ ở cầu thang. Cụ chào tôi trước khi tôi chào cụ. Thấy tôi đi hơi vội vã, cụ đứng lại nhường lối đi và nói: đi cẩn thận. Nghĩ lại, tôi thật vô lễ với cụ. Đáng lý tôi phải chào cụ trước, và nhường lối đi cho cụ thì mới phải phép. Lời khuyên cẩn thận thật đơn giản nhưng nếu tôi ghi nhớ trong mọi hành động và suy nghĩ, tôi đã tránh được rất nhiều lỗi lầm.

Bác sĩ Phan Ngọc Hà.


Hành động tránh đường của bác sĩ Bạch Đình Minh có nhiều ý nghĩa.

Thứ nhất cụ là người trọng Lễ.
Thông thường người Việt mình quan niệm lễ là cách người nhỏ dùng khi đối xử với các bậc trưởng thượng, hoặc cũng có thể là giữa hai người ngang hàng với nhau. Nhưng xã hội ít khi đòi hỏi người trên phải có lễ đối với người dưới.

Bác sĩ Bạch Đình Minh khác hẳn. Ông tránh đường nhường cho bác sĩ Phan Ngọc Hà vì khi đó bác sĩ Minh đã coi bác sĩ Hà cũng như là chính mình. Thứ hai chỉ một thoáng qua nhận xét thấy bác sĩ Phan Ngọc Hà đi hơi vội vã, bác sĩ Minh đoán ngay một bệnh nhân đang trong tình trạng khẩn cấp rất cần sự săn sóc của một bác sĩ. Trong nghề y khoa nhiều khi chỉ sớm một phút, đã có thể cứu được một mạng người. Và trễ một phút đã có thể một người chết oan. Nghĩ tới điều này trước nhất nên bác sĩ Minh lập tức nhường đường để một bệnh nhân có thể được giúp đỡ kịp thời. Một hành động này thôi chúng ta là sẽ thấy ngay hai điều: Một lòng Nhân cao cả và một cách Lễ nghiêm trang, lúc nào cũng đầy trong cách hành xử của bác sĩ Minh. Lại thêm một lời khuyên: Đi cẩn thận. Đó là cách nói của kẻ Trí. Bởi sơ sẩy một chút chính người bác sĩ đang cần đi tới giúp bệnh nhân sẽ bị té. Hai chuyện không tốt sẽ xảy ra: Bệnh nhân lâm nguy, và bác sĩ gặp nạn, thương tích nặng nhẹ tới mức nào chưa biết được.
Bác sĩ Minh trọng Lễ nhưng không hề là người nhu nhược. Ông vô cùng bất khuất.

Khoảng 1968, số thương bệnh binh tăng nhiều, gấp đôi khả năng tối đa ấn định cho một Tổng y viện là 2000.
Các quân y sĩ và y tá tận tụy làm việc không kể ngày đêm, không ngừng tay mà vẫn không xuể.
Có kẻ nói xấu lên bộ Tổng Tham Mưu.
Bộ Tổng Tham Mưu cử một phái đoàn được dẫn đầu bởi Đại tá ĐVK, xuống thanh tra. Đúng giờ hẹn đại tá ĐVK bước vào phòng hội Tổng Y Viện.
Y sĩ trưởng Tổng Y Viện là Đại tá Phạm Hà Thanh đang bận trong phòng giải phẫu, chưa xong nên không ra để họp được với Đại Tá ĐVK. Y sĩ Trung tá Bạch Đình Minh, Chỉ huy phó, được chỉ định đại diện cho Đại Tá Thanh.

Đại Tá ĐVK lên tiếng chỉ trích Tổng Y Viện rằng, các bác sĩ và y tá không làm tròn nhiệm vụ, bê bối trong công việc.
Tuyên thệ sau khi trình Luận Án Y Khoa Bác sĩ.
Bác sĩ Minh mặc áo choàng đen, đại diện anh em đọc lời thề Hippocrates.
Hình kỷ niệm sau lễ Trình luận án.
Hàng trước, từ trái qua phải:
Giáo sư Trịnh Văn Tuất, Khoa Trưởng Phạm Biểu Tâm, Giáo Sư Nguyễn Đình Cát.
Hàng sau: từ trái qua phải, BS Để, BS Trần Lâm Văn Bao,
BS Phạm Hữu Phước, BS Huyền, BS Bạch Đình Minh,
BS Phạm Văn Biểu, BS Từ Uyên.


Bác sĩ Minh trình bày:

- “Nhân danh là chỉ huy phó Tổng y viện Cộng Hòa tôi xin nói ngay rằng các Quân Y sĩ và y tá của chúng tôi trong thời gian qua đã làm việc ngày đêm không ngừng. Các bác sĩ không hề đi trễ về sớm. Không ai trong giờ làm việc đi làm ở phòng mạch tư. Không ai bỏ trực gác. Ngay cả Chỉ Huy Trưởng và Chỉ Huy Phó cũng đều trực gác như các bác sĩ khác. Hiện giờ số bệnh nhân đã nhiều gấp đôi số lượng tối đa được ấn định là 2000, quá mức khả năng điều trị. Và cũng quá sức cố gắng, tận tụy của y sĩ và y tá. Xin bộ tổng tham mưu tăng cường nhân lực vật lực.
Tất cả những báo cáo nhằm chỉ trích về Tổng Y Viện Cộng Hòa đều không đúng sự thật.”

Đại Tá ĐVK không những không muốn công nhận sự tận tụy của các bác sĩ và y tá, mà lại còn nổi giận, muốn lớn tiếng, lấy thịt đè người, khiển trách:

- “các anh làm việc tắc trách. Đã có nhiều báo cáo lên bộ Tổng Tham Mưu…”

Bác sĩ Minh liền nói:

- “Tôi đã trình bày hết tất cả mọi sự thật. Nếu Đại Tá muốn nghe thêm những điều gì khác, xin Đại Tá cảm phiền ngồi đây chờ Đại Tá chỉ huy trưởng của chúng tôi, giải phẫu xong sẽ tới đây. Bây giờ tôi không còn gì để trình bầy với Đại Tá nữa. Tôi phải trở về ngay trại bệnh để lo cho những bệnh nhân. Xin Thiếu Tá Quản Lý Tổng Y Viện ở lại mời Đại Tá sơi nước.”

Bác sĩ Minh bước ra khỏi phòng hội, đi thẳng, không cần biết thêm phái đoàn ĐVK đến bao giờ thì tự ra về, hay còn ngồi trơ lại đó chờ gặp Đại Tá Phạm Hà Thanh.

Là một Trung Tá mà Bác sĩ Minh dám bỏ phòng họp không muốn nghe thêm một Đại Tá muốn nổi giận, cả vú lấp miệng em, thì đủ biết Bác sĩ Minh bất khuất là dường nào. Đó là cái Dũng của kẻ sĩ.
Du học tại Hoa Kỳ, 1962.
Từ trái sang phải:
Y sĩ Thiếu Tá Phạm Hà Thanh, Y sĩ Đại Úy Bạch Đình Minh.
Mảnh hình chữ Trí

Năm 1957, Bác sĩ Minh là Ysĩ Trưởng Quân Y Viện Pleiku.
Khi Đại tá Nhẩy Dù Đỗ Cao Trí được bổ nhiệm làm tư lệnh Quân Khu 3 trên Pleiku, một bác sĩ Nhẩy Dù, tên V.V.Cửu đi theo. (Quân Khu 3 hồi đó có Bình Định, Phú Yên, Pleiku, Kontum; sau này thêm Nha Trang và Ban mê Thuột mới đổi tên thành Quân Khu 2).

Bác sĩ Cửu, dựa hơi Tư Lệnh, muốn lên mặt có quyền. Ông hạ lệnh các bác sĩ phải cắt tóc ngắn. Ngày mai Tư Lệnh sẽ đi khám tóc. Sẽ có một người lính cầm tông đơ đi theo. Ai tóc dài, sẽ bị đưa một đường thẳng từ trước ra sau.Và để cái lệnh của mình phải được tuyệt đối thi hành, bác sĩ Cửu đã nhấn mạnh thêm:

- “Cắt càng ngắn càng tốt”.

Bác sĩ Bạch Đình Minh không phải muốn phá kỷ luật quân đội nhưng chỉ muốn cho Bác sĩ Cửu biết, không phải là cấp trên, ông ta có quyền muốn nói gì thì nói.
Ngày hôm sau sẽ là ngày khám tóc. Là Y sĩ Trưởng, Bác sĩ Bạch Đình Minh cắt trọc lốc. Các đồng nghiệp khác, đoàn kết lại, làm theo. Trong số đó có bác sĩ Trịnh Cao Hải cùng lứa với Bác sĩ Minh, Bác sĩ Trương Minh Tiên, Bác sĩ Nguyễn Mạnh Đức, Dược sĩ Phạm Hy Tân. Khi bác sĩ Cửu trình diện nhóm bác sĩ ở Quân Y Viện cho Đại tá Trí, Đại tá Trí hỏi sao có hiện tượng đó. Bác sĩ Minh thưa:

- “ Bác sĩ Cửu ra lệnh .”

Bác sĩ Cửu ở trong tình trạng khóc giở mếu giở.
Vị Tư Lệnh chỉ nhìn bác sĩ Cửu không nói gì, nhưng ý như muốn bảo “ông ra cái lệnh gì mà kỳ cục vậy?”
Bác sĩ Cửu tự cảm thấy sượng mặt.

Bác sĩ Bạch Đình Minh biết kỷ luật là sức mạnh của quân đội. Ông tôn trọng nó, nhưng ông không bao giờ dùng nó để đánh bóng cá nhân hay làm một chiêu bài để mình quát thét mắng chửi anh em.

Cuối năm 1960, Bác sĩ Minh đi làm Y sĩ Trưởng Quân y viện Nha Trang. Đại Tá Trí giữ chứcTư Lệnh Quân Trấn Nha Trang, Đồng Đế.

Thời đó Việt Cộng chưa tấn công nhiều. Hết giờ làm việc, quân nhân có thể mặc thường phục. Tuy nhiên Đại tá Trí không muốn ai lợi dụng xe Jeep là thứ dùng trong lúc làm việc, chứ không phải để lái đi chơi loanh quanh. Do đó ông hạ lệnh không một quân nhân nào dù cấp bực cao đến đâu, hoặc nắm chức vụ gì đi chăng nữa, được phép mặc quần áo dân sự lái xe jeep đi chơi. Hoặc là tài xế mặc quân phục lái, người ngồi cạnh mặc dân phục cũng không được. Lệnh này có rất nhiều điều hay. Thứ nhất không ai được lạm dụng quân xa. Thứ hai tránh cho dân chúng nhìn vào thấy quân đội chỉ gồm toàn những người “ngồi chơi”, phí phạm công quỹ.
Sau khi lệnh này ban ra các quân y sĩ lẽ dĩ nhiên cũng phải tuân hành. Tuy nhiên đang là Y sĩ trưởng Quân Y viện bác sĩ Minh hỏi Đại tá Trí một câu rằng:

- “Thưa Đại Tá, buổi chiều hết giờ làm việc, và nếu không phải phiên trực, chúng tôi mặc thường phục đi dạo phố ăn uống, hoặc đi chơi ngoài bãi biển. Đi tới chỗ nào chúng tôi đều nói cho thuộc cấp biết. Nếu bất chợt một quân xa chạy ra nơi chúng tôi đang ngồi và bảo rằng có chuyện khẩn cấp trong quân y viện. Thưa Đại Tá khi đó chúng tôi phải làm gì?
Phải chờ đón được một xe xích lô rồi mới về quân y viện, hay sẽ phải đi bộ hoặc chạy bộ để kịp về quân y viện cứu chữa thương bệnh binh. Xin đại tá cho chỉ thị.”

Đại tá Trí thấy câu hỏi của bác sĩ Bạch Đình Minh, rất có lý. Câu hỏi này không nhắm vào việc cố ý bất tuân thượng lệnh nhưng lại quan tâm tới tính mạng thương bệnh binh. Điều này phát ra từ tấm lòng Nhân của một bác sĩ tận tâm. Đại Tá Trí chỉ suy nghĩ một vài giây, rồi nói ngay:

- “Lệnh không được mặc thường phục ngồi trên quân xa, áp dụng cho mọi binh chủng, ngoại trừ Quân Y.”

Được một lệnh như vậy, không phải dễ gì đối với một vị tư lệnh. Đây cũng không phải một đắc thắng có liên quan đến cảm tình cá nhân. Đồng thời cũng không phải là một cách để vênh vang khoe với những bạn đồng ngũ là quân y hơn các anh em binh chủng khác. Tất cả những điều này phát ra từ lòng Nhân của Bác sĩ Minh.

Với cách trình bầy của kẻ Trí, Bác sĩ Minh đã khiến vị tư lệnh cho một lệnh thích hợp có lợi cho thương bệnh binh.

                                                                   …

Khi 17, 18 tuổi, tôi có đến nhà một kiến trúc sư ở đường Hồng Thập Tự Sàigòn.
Tôi gõ cửa. Chính ông ta ra mở. Tôi xưng tên họ rồi nói:

- “Sở dĩ tôi mạo muội đến đây vì muốn hỏi ông vài điều về tử vi. Tôi đã mua bộ sách ông vừa xuất bản viết về môn bói toán này. Tôi đã đọc. Nhưng có một chỗ khúc mắc nên xin diện kiến ông để thỉnh ý.”

Ông mời tôi vào trong nhà. Ngồi trong nhà ông này có thể nhìn qua bên kia đường thấy hàng rào Dinh Độc Lập.

Tôi mở bộ sách của ông ra rồi xin ông giải thích cho một vài điều. Ông Kiến Trúc Sư vui vẻ, giải đáp tận tình.

Sau đó có một thời gian tôi nghiên cứu kỹ, và áp dụng môn tử vi vào đời sống.
Lá số tử vi gồm 12 ô vuông, gọi là cung, xếp liên tục xung quanh đường chu vi của tờ giấy. Mười hai cung đó là: mệnh, huynh, thê, tử, tài, tật, di, nô, quan, điền, phúc, phụ. Số sao
trong khoa Tử Vi gồm 14 chính tinh (sao chính) và 80 bàng tinh (sao phụ). Trong cả hai nhóm này, có phúc tinh nôm na gọi là những sao tốt và hung tinh tức sao xấu. Tuy nhiên có sách lại liệt kê thêm một ít sao nữa.

Mỗi người đều có đầy đủ số lượng sao kể trên, kể cả tốt lẫn xấu.
Chúng ta hãy tưởng tượng ra cảnh dưới đây, thì sẽ hiểu nguyên lý của môn Tử Vi.

Ông Trời ngồi trước bàn. Trên mặt bàn có một tờ giấy trắng, có tên một người. Mười hai ô vuông, gọi là cung, đã kẻ sẵn, xếp liền nhau liên tục theo chu vi của tờ giấy.

Ông Trời cầm trọn nắm sao trong tay. Rồi tùy hứng, không chọn lựa gì trước, mở nắm tay ra, thả hết xuống.

Đám sao sẽ tùy nghi, chẳng theo một thứ tự nào hết, muốn lăn tới ô nào thì lăn, muốn ngừng lúc nào thì ngừng.

Khi tất cả đã yên vị, số mệnh của kẻ có tên trên tờ giấy đã an bài. Nếu một hai, cung có nhiều sao tốt quá thì những cung còn lại tất nhiên phải lãnh những sao xấu. Rủi có một cung nào gặp toàn sao xấu tụ lại, thì phần tương ứng với cung ấy của đời người đó sẽ thê thảm.

                                                                   …

Trở lại chuyện bác sĩ Bạch đình Minh.

Năm 1945 Ông Minh đang học năm thứ nhất y-khoa tại Đại Học Hà Nội. Tới hồi tháng 12-1946 chiến tranh bùng nổ ra giữa Pháp và Việt Minh. Các trường phải đóng cửa. Kể cả Đại Học. Ông Minh về Nghệ An là nơi quê hương bản quán của gia đình.
Việt Minh đã kiểm soát được toàn bộ vùng này. Ông Minh về được ít lâu thì chúng bắt giữ thân phụ Ông, là người đang giầu có nhất vùng thời đó. Chúng chưa giết ngay.
Suốt 7 năm sống tại đây, ông Minh thấy rõ bộ mặt thật của cộng sản. Ông biết không thể sống được với chúng và tìm mọi cách để trốn đi.
Mãi đến năm 1952 ông mới may mắn chạy thoát lên được Hà Nội đúng vào ngày đám cưới của cô em gái. Vợ con phải đi những chuyến khác, vào những lúc khác nhau. Nhưng cuối cùng cũng tới được cả.

Thân mẫu ông Minh cũng ra được khỏi vùng Việt Minh.
Riêng thân phụ ông vẫn còn bị giữ trong trại tập trung ở Nghệ-An.
Từ phải sang trái: Nha sĩ Đại Úy Đỗ Đình Vị,
Y sĩ Trung Tá Bạch Đình Minh (giữa) và hai con,
Ông Minh đi học Y khoa tiếp. Các bạn cùng lớp thuở trước đã tốt nghiệp Y Khoa Bác sĩ hết cả rồi.

Hai năm sau, hiệp định Genève được ký kết vào ngày 20-7-1954, chia đôi đất nước.

Mỗi người, mỗi gia đình suy nghĩ và tự quyết định. Biết rằng mình không thể ở lại được với cộng sản, nhưng đi, thì phải bỏ bố lại. Có nên đi hay không?

Ông Minh tiến thoái lưỡng nan.
Ông đang ngụ tại đền Lý Triều Quốc Sư ở Hà Nội.
Ông thắp hương khấn vái để xin ý kiến, có nên đi hay không. Ông lắc ống Xâm, xin một quẻ.
Quẻ ra như sau:

Phen này ắt hẳn người sang đón

Chớ ngại đường trường, sự hiểm nguy
Bình an phú quý mưu cầu được
Mây có thang lên, nước có cầu.

Đưa mắt đọc, ông tin gia đình ông sẽ thoát một cách bình an. Nhưng đến hai chữ Phú quý, ông ngừng lại. Ông biết rất rõ, tiền bạc ngập trời và ruộng nương thẳng cánh cò bay của ông Bố đã đưa đến tai họa cho chính Bố mình.
Ông vái cám ơn thần linh. Xin phù hộ cho được bình an trong chuyến đi. Ông còn hứa sau này ra bác sĩ, chỉ chuyên tâm lo cho bệnh nhân mà thôi, không nghĩ đến phú qúy.

Ông hứa với thần linh, và ông cũng tự hứa với mình như thế.
Mảnh hình chữ Tín

Thuở còn ở tiểu học, tôi đọc được câu chuyện dưới đây trong Cổ học tinh hoa, rất lấy làm thích:

Treo kiếm trên mộ
Quí Trát sang sứ nước Tấn có đeo thành bảo kiếm qua chơi với vua nước Từ.
Vua nước Từ ngắm thanh kiếm, ra dáng thích, muốn xin mà không nói ra.
Quí Trát vì còn phải đi sứ thượng quốc, tuy chưa dâng vua Từ được thanh kiếm ấy, nhưng trong tâm đã định cho.
Khi sang sứ Tấn xong, về qua Từ, thì vua Từ không may đã mất, đành tháo thanh kiếm đưa cho tự-quân.
Các người theo hầu ngăn lại, nói:

- “Thanh kiếm ấy là của báu của nước Ngô, không phải là thứ để tặng được.

Quí Trát nói:

- “Không phải là ta tặng. Độ trước ta lại đây, vua Từ xem kiếm của ta, tuy chẳng nói ra, mà như dáng muốn lấy. Ta vì còn phải đi sứ thượng quốc chưa dâng được. Tuy vậy đã định cho. Nay vua Từ chết mà ta chẳng hiến thanh kiếm, thì ta tự dối tâm ta. Tiếc kiếm mà dối tâm, người liêm không chịu làm.
Nói xong bèn tháo thanh kiếm đưa cho tự- quân.

Tự-quân nói:

- “Tiên- quân tôi không có dặn lại việc ấy, tôi không dám nhận kiếm.”

Quí Trát bèn treo thanh kiếm vào cái cây ở mộ vua Từ rồi đi.
Người nước Từ ai cũng khen Quí Trát rằng không quên người thân-cố, đem thanh gươm báu treo vào cây bên mộ

Tân-tự


Một người đã nói ra điều gì mà giữ được, thật đáng trọng. Có đức tính này sẽ gây được lòng tin của thiên hạ. Đó là giữ chữ tín với người đời. Việc này khó. Thế nhưng, có những điều mình tự hứa, mà giữ được mới thật là khó nhất. Đó là giữ chữ tín đối với chính mình. Khó nhất vì sao? Điều gì trong đầu của mình, tự mình mình biết, tự mình mình hay. Có thay đổi cũng chẳng ai biết đâu mà dò. Có tráo trở ngược lại cũng không một ai đoán được. Vì sự dễ dàng này nên không ai cảm thấy bị ràng buộc, và thay đổi tùy thích.
Quí Trát giữ được chữ tín đối với chính mình.
Bác sĩ Bạch Đình Minh ra trường. Ông giữ chữ Tín cho chính mình. Ông rất nhớ điều đã tự hứa. Ông chỉ chuyên tâm lo chữa trị, giúp đỡ bệnh nhân. Ông không hề dùng nghề nghiệp này để tích tụ tiền của. Liêm khiết tuyệt đối, dù Ông đã giữ chức Chủ Tịch Hội Đồng Miễn Dịch nhiều năm tại Quân Y Viện Nguyễn Huệ Quân Khu II và Tổng Y Viện Cộnh Hòa, Quân Khu III.

Xin mời xem Bác sĩ Nam Minh Bách kể về Bác sĩ Bạch Đình Minh:

…Bạn tôi có kinh nghiệm bản thân. Xuất thân trong nhung lụa, gia đình đại điền chủ kiêm đại tư bản, anh không xa lạ gì đời sống giầu sang phú quý. Trong anh em miền Bắc không ai có ông bố giầu có như anh. Ngoài sở hữu chủ mấy trăm mẫu ruộng, ông là người xuất nhập cảng đầu tiên cùng Denis Frères hay Descours Cabaud. Nghe nói ông có cả tiền triệu hiện nay vẫn còn nằm tại ngân hàng ngoại quốc. Cậu cả, anh bạn tôi học trường tỉnh nhưng khi hội tuyển Hồng Kông Nam Hoa đấu sân Mangin với Ancre sportive hay Olympic Haiphongais là có xe đón lên Hà Nội xem xong đưa về.

Năm 1944 không biết quen nhau từ trước hay gia đình sắp đặt, chàng kết duyên với một thiếu nữ vừa trẻ đẹp vừa nhu mì, nhưng không ai biết sau này sẽ can đảm phi thường với sức mạnh tinh thần không thua gì chàng trai xứ Nghệ. Gia đình nàng còn giầu có, bề thế hơn, cơ sở kinh doanh Hà Nội Hải Phòng cạnh tranh với doanh thương Pháp.
Có lẽ ông Minh đã nghiên cứu lẽ huyền vi của Tạo Hoá. Bao nhiêu sao tốt đã vào hết hai cung Tài Bạch và Điền Sản của bố mình rồi, còn lại toàn sao xấu dồn cả vào cung Mệnh, cho nên mới gặp tai họa lớn.

Và chắc nhà còn Phúc nên chính mình và vợ con chưa, hay không bị lọt vào trong tình trạng thê thảm hoặc nguy đến tính mệnh như Bố.

Cách suy nghĩ này của kẻ Trí đã hướng dẫn cách sống và mọi hoạt động của ông sau này.

Quả thật ông và gia đình vào được trong Nam bình an.
Năm 1958, ông tốt nghiệp Y khoa bác sĩ.
Sinh viên Y Khoa Bạch Đình Minh cùng vợ và hai con, chụp hình với song thân và cô em gái (mé trái hình).
2- Một yếu tố nữa là cả hai gia đình đều rất giầu có. Khi Việt Minh lên, thân phụ Bác sĩ Minh bị đại họa. Nhạc phụ bác sĩ Minh, vốn là chủ hãng xe hơi Aviat và Citroen, may mà thoát được, không bị giết, cũng không bị bắt làm tù khổ sai. Vào đến trong Nam đương nhiên nhạc phụ bác sĩ Minh cũng đã mất hết 99 % của cải. Từ đó Cụ chỉ vui sống trong cảnh thiên nhiên ở Đà Lạt, viết văn, làm thơ.

Bác sĩ Minh cũng như phu nhân đã trải qua tất cả mọi điều đều giống nhau. Do đó dễ tâm đầu ý hiệp, tâm ý tương thông. Cả hai cùng không lao vào vòng danh, lợi nữa, chỉ coi phúc đức là mục đích tối hậu.

Có lần, khi Thủ tướng Trần Văn Hương thành lập nội các ông đã mời Bác sĩ Bạch Đình Minh giữ một chức tổng trưởng. Bác sĩ Minh đã quyết định gạt bỏ phú quý. Ông từ chối.
Nhưng khi trình bầy, ông chỉ nói rằng, ông không muốn làm chính trị, chỉ muốn làm việc chuyên môn.
Quí Trát thời Đông Chu và Bác sĩ Minh thời Việt Nam Cộng Hòa, hai người sống cách nhau cả mấy ngàn năm, nhưng phong cách giống nhau. Thật đáng phục.
Trên đây chúng ta đã xem những bức hình do những người thuộc phái nam ghi lại.
Để cho bức tranh được toàn mỹ tôi xin phép dùng một mảnh hình có vài cảnh phác họa lại bởi một người tên là Phan Cẩm Anh. Người này vốn rất thân với gia đình Phó Tổng Thống Trần Văn Hương và được cụ coi như một cháu gái trong nhà. Phu quân của Bà là bác sĩ Nguyễn Đức Thụ, Y khoa Đại học Sài gòn 1974, là người chăm sóc sức khoẻ cho Cụ sau khi mất nước.

Xin mời xem:

Những lần thăm bệnh sau của nhà tôi, cụ Hương tâm sự nhiều hơn về những vui buồn trong cuộc đời tham chánh của Cụ. Cụ cũng luôn nhắc đến những người mà cụ đặc biệt quý mến như bác sĩ Bạch Đinh Minh. Cụ hỏi nhà tôi:

- “Con có biết bác sĩ Bạch Đình Minh không?”.

Nhà tôi thưa “có” và giải thích:

- “Con học chung một lớp với con trai của bác sĩ Minh. Cụ Hương ngậm ngùi kể lại:

- “Bác sĩ Minh là một người rất thanh bạch mà chú rất đặc biệt quí trọng. Hồi trước có lần chú tặng bác sĩ Minh một chiếc đồng hồ để bác sĩ Minh dùng đi khám bệnh. Bác sĩ Minh chỉ đeo có một tuần rồi đem trả lại chú, không chịu nhận nữa. Chú thấy bác sĩ Minh phục vụ trong quân đội hết lòng tận tụy và giầu tinh thần trách nhiệm với chức vụ nên chú đã đề nghị lên Tổng thống Thiệu tưởng thưởng “Bảo Quốc Huân Chương” cho bác sĩ Minh. Bác sĩ Minh từ chối không nhận, viện cớ rằng ông đã được làm việc ở chỗ an toàn, xin dành huy chương ấy cho những người đã xả thân chiến đấu, hy sinh xương máu của mình cho đất nước. Chú cố thuyết phục để bác sĩ Minh nhận nên kể cho bác sĩ Minh nghe câu chuyện này: Một lần, chú đi thanh tra một tỉnh dưới quê, đến thăm một ngôi trường làng nhỏ, hẻo lánh. Gặp một thầy giáo già đang dạy học ở đó. Sau khi hỏi chuyện chú được biết người thầy giáo này đã dậy học ở ngôi trường trên suốt mấy chục năm qua… Chú nghĩ vị thầy kia cũng đã cống hiến cả cuộc đời của mình để để góp công phục vụ quốc gia đất nước, nên chú cũng đã đề nghị tưởng thưởng Bảo Quốc Huân Chương. Bác sĩ Minh cũng đã cống hiến cho đất nước lòng phục vụ cao cả của ông. Nghe chú nói vậy bác sĩ Minh cũng khảng khái nhất định khước từ không chịu nhận huân chương này.

Phan Cẩm Anh
Tháng giêng, 1996.

Trở lại tấm Bảo Quốc Huân Chương.
Bác sĩ Minh là một người tự trọng, và ông nghĩ rằng những người chiến sĩ đáng được thưởng huy chương này vì đã đem xương máu bảo vệ quốc gia.

Tôi cho rằng Phó Tổng Thống Trần Văn Hương lại suy tư cách khác. Cụ nghĩ rằng bác sĩ Minh là một người tiêu biểu, đã giữ được nhiều đức tính của những người sống trong nước Việt Nam Cộng Hòa. Phong thái này của bác sĩ Minh đã biến ông thành như một thứ bảo tàng viện của những đức tính của những người đáng trọng của miền Nam Tự Do. Đó cũng là một cách bảo vệ quốc gia. Nói cho rõ hơn, là bảo vệ những truyền thống tốt đẹp: cung cách cao quí của những con người sống tại miền Nam Tự Do và sự tận tâm của các Bác sĩ của nước Việt Nam Cộng Hòa.
Chính vì thế mà sau đó Phó Tổng Thống Trần Văn Hương đã gặp Bác sĩ Minh lần nữa để khẩn khoản nói:

- “Đây không phải là trường hợp một Phó Tổng Thống ân thưởng Bảo Quốc Huân Chương cho một người. Xin coi đây như là món quà riêng của già Hương này tặng Bác sĩ. Bác sĩ nhận dùm đi.”
Một vị Phó Tổng Thống, nổi tiếng liêm khiết, thẳng thắn, đạo đức nhất của Việt Nam Cộng Hòa mà xưng là “Già Hương này” với bác sĩ Minh tức là đã kể bác sĩ Minh là bạn chí thân.
Bác sĩ Minh đành nhận tấm Bảo Quốc Huân Chương.
Đúng là, đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu.

                                                                   …

1975

Con trai lớn bác sĩ Minh là bác sĩ Bạch Thế Thức, khóa 21 quân y hiện dịch, đang phục vụ trong trại ngoại khoa tại Tổng y viện Duy Tân, Đà Nẵng.

Bác sĩ Bạch Thế Thức đã trở thành một bác sĩ giải phẫu vì lý do sau đây: Tết Mậu Thân 1968, Việt Cộng đánh 44 tỉnh cùng một lúc. Chúng đã chiếm được nhiều nơi trong thành phố Sài Gòn. Các chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đang cố gắng đánh bật chúng ra. Nhiều chiến sĩ hy sinh. Xe hồng thập tự ùn ùn chở thương binh tới Tổng Y viện Cộng Hòa. Các bác sĩ và y tá khẩn cấp làm việc không kịp thở.

Anh Thức thấy rất nhiều thương binh, lẫn tử sĩ, chật ních bên trong phòng cấp cứu và cả bên ngoài nữa, trong số đó có một chiến sĩ thủy quân lục chiến bị thương nặng, đang quằn quại nằm, chờ được cứu chữa.
Khi đó Anh Thức đang học APM ở Khoa học Đại Học, nhưng trù trừ chưa biết rồi sẽ học ngành nào. Đứng trước cảnh này, anh Thức lập tức quyết định:

- “Mình phải học Bác sĩ, và phải trở thành một bác sĩ giải phẫu, để sau này có thể cứu giúp được người, trong những hoàn cảnh thập tử nhất sinh như thế này.”

Tháng ba 1975, Đà Nẵng mất. Bác sĩ Thức chạy vào được Sài Gòn. Vào những ngày cuối tháng tư, dân số thủ đô khoảng 2.000.000 người. Ai cũng mong thoát. Nhưng với
dân số đông như vậy, hy vọng thoát được cho mỗi người là một phần triệu. Thoát cách nào cũng được, đường bộ, đường thủy, phi cơ. Ngày 29-4, trong tình trạng tuyệt vọng chẳng làm sao tìm ra được phương tiện để chạy, bác sĩ Thức chán quá, nằm ngủ trong căn nhà ở Khánh Hội. Anh Thức tuy ở quân y nhưng lúc nào cũng thích không quân. Anh nghiên cứu đủ loại máy bay. Anh có tài lạ, là dù ngồi trong nhà hay làm trong bệnh viện, chỉ cần nghe tiếng máy bay xa xa, ở trên trời, là anh đã biết ngay đó là chiếc máy bay gì.

Trong lúc đang ngủ trưa, giữa niềm tuyệt vọng, anh chợt nghe tiếng máy bay hơi lạ trên bầu trời Khánh Hội. Anh hiếu kỳ, vùng dậy, chạy ra ngoài đường ngó lên trời. Xong, anh cúi đầu nhìn lại xuống đất. Anh thấy mọi người rùng rùng chạy. Anh chợt nghĩ, tại sao mình không tiếp tục đi tìm đường chạy, mà lại nằm ngủ một cách vô lý như thế này? Anh lấy chiếc xe gắn máy Honda chạy đi thám sát bến Bạch Đằng. Rồi lại chạy về.

Anh dắt mẹ và vợ là bác sĩ Nguyễn Thúy San, vốn học cùng lớp, và đứa con đầu lòng mới 4 tháng, cộng thêm 5 đứa em, tất cả là 9 người chạy trở lại bến Bạch Đằng. Trời xui đất khiến, mới tới Thương khẩu ở Khánh Hội, chợt thấy một xà lan Mỹ không biết từ đâu chạy tới, tắp vào bờ. Anh kéo cả gia đình bước xuống. Gia đình Anh là một trong những người đầu tiên đặt chân lên sàn xà lan này.Thẳng ra biển.

Ngày 30-4-1975. bác sĩ Minh đang ở bệnh viện Nguyễn Văn Học. Ông đang đâm kim vào rút nước tủy sống để chữa cho một bệnh nhân. Hoàn tất việc này, ông vừa buông mũi kim xuống xong thì Việt Cộng tràn vào cửa trước bệnh viện. Ông chạy thẳng ra cửa sau. Một người quen, cùng quê ở Nghệ An, kéo ông chạy xuống Rạch Giá. Từ đó, may mà kiếm được thuyền, chạy thoát.

Trở lại quẻ xâm Bác sĩ Minh đã thành tâm khấn vái tại đền Lý Triều quốc sư mà xin được:

Phen này ắt hẳn người sang đón
Chớ ngại đường trường, sự hiểm nguy
Bình an phú quý mưu cầu được
Mây có thang lên, nước có cầu .

Quẻ đã linh nghiệm, ứng vào gia đình này hai lần. Lần đầu vào năm 1954. Lần thứ nhì, 1975.

Tới đất Mỹ Bác sĩ Thức và vợ là Bác sĩ Thúy San tiếp tục được nghề cũ sớm. Bác sĩ Minh cũng lấy lại được bằng hành nghề sau đó. Về sau, hai người con trai của bác sĩ Thức cũng tốt nghiệp bác sĩ trên đất Mỹ.

Tứ đại đồng đường, trong đó ba thế hệ liền nhau cùng hành nghề cứu nhân độ thế. Hai đứa chắt đích tôn sinh đôi của Bác sĩ Minh, còn nhỏ, chưa tham dự công việc này được.

Suốt đời bác sĩ Minh và phu nhân chỉ nghĩ đến việc làm phúc.
Phúc quả nhiên đã đến.

                                                                   …

Từ lúc 10 tuổi tôi đã thích nhiếp ảnh.
Bây giờ, tôi biết mình vừa chụp xong được một bức Chân Dung.
Chân Dung Bác sĩ Bạch Đình Minh.
Nhất Anh dịch