Qua Truông Nhà Hồ(1)
Để được gọi là người Quảng Trị, xét ra tôi không thuộc diện nào cả. Đang tính quẩy gánh qua Truông nhà Hồ
để vào Quảng Trị tá túc lâu dài, bỗng dưng nửa đàng rớt thúng. Bạn thử nghĩ coi, có ai quẩy gánh mà chỉ có một
đầu. Thành ra nói về Quảng Trị, tôi là kẻ đứng bên lề. Nghe nhiều hơn biết. Nếu người Quảng Trị có nhiều điểm nổi
bật, theo tôi nghe thì khẩu lệnh sau đây trở thành như bất biến. Ấy là “biết thì thưa thốt, không biết thì dựa cột mà
nghe”.
Đặc tính này xét ra rất chí lý đối với một tập thể vốn không phải là cư dân cố cựu trên vùng đất phía nam dãy
Hoành Sơn [Đèo Ngang]. Cũng như Quảng Bình, người Quảng Trị có nguồn gốc lâu đời ở miền bắc Việt Nam, nghĩa
là từ phía bắc đèo Ngang ra tới biên giới Trung Hoa. Có lẽ đã có nhiều cuộc di dân về miền nam. Nhưng khi hai
châu Ô, Lý [cũng gọi là Rí] của Chiêm Thành chính thức trở nên hai châu Hoá, Thuận của Đại Việt sau cuộc tình đổi
chác giữa công chúa Huyền Trân với Chiêm vương Chế Mân vào năm 1306, thì đã có nhiều tộc hệ Đại Việt đến lập
cư trên vùng đất mới. Họ khác nhau về tộc hệ, nhưng có chung một mẫu số, đó là Đại Việt. Hơn thế nữa, họ có
chung một lý tưởng là tạo dựng cơ nghiệp trên vùng đất mới, đảm nhận vai trò mũi nhọn xung yếu: Tiến công, Phát
triển và Ổn định trong sứ mạng Nam tiến của dân tộc. Mỗi tộc hệ là một đơn vị cư dân. Chính họ phải chứng tỏ khả
năng tiêu biểu của mình trong cộng đồng xã hội mới. Tính tự trọng được coi như mẫu mực, làm nền tảng cho nấc
thang giá trị. Phân biệt chân giả cũng do đó mà phát sinh. Không cá nhân nào có thể nói thay cho tộc hệ của mình,
nếu không phải là vị tộc trưởng được cả tộc tôn kính và tín nhiệm. Câu nói: “Biết thì thưa thốt, không biết thì dựa cột
mà nghe”, tôi nghĩ có lẽ đã ra đời trong một hoàn cảnh như vậy.
Bạn có thể nhận ra trong việc bố trí cư dân dựa trên tộc hệ ở Quảng Trị. Có lẽ không nơi nào khác, tên mỗi
tộc hệ đã được dùng nhiều để đặt thành địa danh như ở Quảng Trị. Nếu là người địa phương, chắc chắn bạn có thể
kể ra hàng chục địa danh bắt đầu bằng tên họ [last name] cọng thêm chữ Xá. Xá là nhà. Chẳng hạn như Dương Xá,
Hoàng Xá, Mai Xá, Ngô Xá, Võ Xá…Điều đáng nói là mỗi Xá như vậy phải có cái gì để tự hào. Tất nhiên phải là cái
biết có giá trị. Nếu chưa biết thì phải dựa cột xá mà nghe vị tộc trưởng dạy dỗ, bảo ban. Để có cái biết như vậy xét
ra không đơn giản. Cái khó của người Quảng Trị nằm ở chỗ đó. Cái khó làm nên nét tự hào đặc biệt.
Hạ Cờ và Chấp Lễ, mỗi làng nằm hai bên lằn ranh Quảng Trị và Quảng Bình. Để có hai địa danh này, hình
như phát xuất từ một câu chuyện đi thăm dân cho biết sự tình của một ông vua triều Nguyễn. Chỗ dân địa phương
Quảng Bình mang đặc sản tiến dâng vua và được nhà vua chấp nhận, sau được gọi tên là Chấp Lễ. Chỗ nhà vua và
đoàn xa giá dừng chân nghỉ lại qua đêm trên đất Quảng Trị, sau được gọi là Hạ Cờ. Nếu bạn không phải là người
Chấp Lễ thì đừng nên giả giọng Quảng Trị. Tiếng nói Quảng Trị coi vậy mà rất khó bắt chước. Người Phủ Cam giả
giọng Quảng Trị sẽ lòi ra cái đuôi Huế, trong khi họ có thể nói tiếng Quảng Nôm như người Điện Bàn, Hội An; nói
tiếng Sài Gòn như người Bến Nghé, Đồng Nai. Câu chửi cha không bằng pha giọng đã được người Quảng Trị
sửa lưng thiên hạ nhiều lần. Lý do là bạn đã giả giọng không đúng. Ra chợ Gio Linh, bạn hỏi mua một trái khổ qua
thấy trong rỗ của một bà ngồi cạnh hàng rau giữa chợ, nhưng không ai biết bạn muốn nói cái gi. Mướp đắng là tên
gọi bình dân, hỏi đến ai cũng biết. Bạn phải tinh tế để nhận ra triết lý bình dân nơi những câu nói vè ở Quảng Trị.
Khoai to vồng thì tốt cộ
Đậu ba lá thì vừa un
Gà mất mạ thì lâu khun
Trời sinh voi thì sinh cỏ
Trời sinh sông thì sinh đò
Trời sinh O thì sinh tui
Mây ngoài biển hắn cuốn vô
Mây trên trời hắn cuốn lại
Tui với O cùng cuốn lại…
Nhiều người nói tiếng Quảng Trị nặng. Chúng tôi nghĩ cái nặng ấy có lý do chính đáng của nó. Điểm nặng bao
giờ cũng ở trung tâm (center of gravity). Và hình như cái gì càng xuôi về phía nam Đèo Ngang, thì rất khác với cái gì
đang có ở phía bắc. Đó là sức ép. Có thể sức ép của luật sinh tồn còn lưu lại trong ngôn ngữ? Nếu không có sức ép
thì hai châu Ô, Lý vẫn mãi mãi là của Chiêm Thành. Thiếu một sức ép bền bỉ thì vùng đất từ Hoành Sơn vào đến tận
cùng Cà Mâu - Hà Tiên ngày nay, vẫn mãi mãi là của Lâm Ấp, Chiêm Thành, Thuỷ Chân Lạp. Nói như vậy không có
nghĩa là tổ tiên chúng ta quá hiếu chiến. Đã có lúc tổ tiên chúng ta chọn Ái Tử là chỗ dừng chân để lập nghiệp và hy
vọng được an cư lâu dài trên vùng đất vốn là quà cưới của công chúa Huyền Trân. Niềm ước mơ ấy thể hiện rất
nhiều trong các địa danh bắt đầu bằng chữ An ở Quảng Trị, bên cạnh các địa danh còn sót lại của người bản xứ
Chiêm Thành như Cùa, Trấm, Sòng, Sãi…Khi nói về An Cư, An Lộng, An Lợi, An Toàn, An Thái…tự nhiên bạn có
một ý niệm về chủ trương cọng sinh, hoà bình của tiền nhân đối với người bản xứ và cả nơi cộng động vừa mới hình
thành. Đáng ra phía nam Quảng Bình phải là Quảng An, nhưng Trị cũng có nghĩa là giữ gìn sự yên ổn. Chưa thấy ai
nói lên cái ý nghĩa tiềm tàng nơi những địa danh như vậy, kể cả soạn giả Nguyễn Văn Tân với cuốn Từ Điển Địa
Danh Lịch Sử và Văn Hoá Việt Nam [Nhà xb Văn Hoá Thông Tin, Hà Nội, 1998, dày1618 trang]. Không thấy soạn
giả nói đến một địa danh nào bắt đầu bằng chữ An ở Quảng Trị, ngoại trừ địa danh An Xá ở Quảng Bình [quê của
tướng Võ Nguyên Giáp] và An Cựu ở Thừa Thiên, quê của Hải Triều (1908-1954), một đảng viên kỳ cựu của đảng
Cộng Sản. Một cuốn Từ Điển Địa Danh Lịch Sử và Văn Hoá, nhưng khó thấy nét văn hoá được chia đều cho từng
quê hương. Nhìn lại, bỗng dưng thấy Quảng Trị bị thiệt thòi hơn cả, mặc dù đất Quảng Trị có hàng chục địa danh bắt
đầu bằng chữ An!
Từ Truông nhà Hồ chúng tôi đi vào Quảng Trị, chợt thấy vài địa danh độc chiếc như Cùa, Sãi, Sòng,
Trấm…Nhưng vào tới Thừa Thiên thì thấy khá nhiều những tên lạ như Huế, Nông, Sam, Sịa, Sình, Trẹm,
Truồi…Về địa danh Huế*, có khá nhiều người đã nói đến chuyện xuất xứ của nó. Chẳng hạn hai tác giả Nguyễn
Châu và Đoàn Văn Thông trong Ngàn năm xứ Huế (do Nhóm Thương Huế, bắc California [San Jose], xb năm
1993) đã dành Chương lV, Địa Danh Huế (từ trang 139 đến 156) để nói về nguyên uỷ địa danh Huế do đâu mà có.
Tựu trung, hai tác giả đã dùng nhiều tài liệu của các giáo sĩ truyền giáo (1653), các thương buôn Tây phương
(1823), tài liệu của sử gia Phan Khoang trong Việt Sử Xứ Đàng Trong (1967), ý kiến của học giả Thái Văn Kiểm…
để đi đến một khẳng định rằng Huế do Hoá (trong Thuận Hoá) mà viết trại ra. Rõ ràng hơn, hai tác giả quả quyết:
Huế xuất xứ từ chữ Hoá (trang 156).
Hai tác giả đã tỏ ra công phu, nhưng không đáp ứng được sự xác đáng khi bỏ quên việc truy cứu các nguồn
tài liệu khác trong kho tàng văn hoá lịch sử của dân tộc, đặc biệt là trong kho tàng Hán Nôm, trong đó vua Lê Thánh
Tông đã có dịp nói đến địa danh Huế trong một văn bản của nhà vua. Đây là một vấn đề địa lý văn hoá có liên quan
đến Quảng Trị, vì vùng chợ Sãi ở gần làng Cổ Thành, phá Tam Giang, rồi chợ Bao Vinh vốn là tuyến thương buôn
nhộn nhịp ở châu Hoá vào cuối thế kỷ XV. Vua Lê Thánh Tông (1442 - 1497) có lẽ là người đầu tiên nhắc đến địa
danh Huế. Trong một bài văn nôm có nhan đề “Thập giới cô hồn quốc ngữ văn”2, nhà vua đã viết: “Hương kỳ
nam, vảy đồi mồi, búi an tức, bị hồ tiêu, thao Lào, thóc Huế, thuyền tám tầm chở đã vạy then”.
Với 38 năm trị vì, vua Lê Thánh Tông đã có dịp vào châu Hoá, châu Thuận, ghé cửa Tư Hiền, đến tận Thạch
Bi Sơn [núi Đá Bia] phá thành Đồ Bàn, bắt vua Chế Cũ, chiếm đất Chiêm, lập nên đạo Quảng Nam. Rõ ràng, thuyền
tám tầm, thuyền lầu3 là những phương tiện hải hành thông dụng, đã nối chợ Sãi với Bao Vinh. Trong mô hình kinh tế
thời bấy giờ, hàng từ Lào sang Đại Việt không có con đường nào khác là qua ngã Khe Sanh, Hướng Hoá, xuống
Cam Lộ, đổ về chợ Sòng ở làng Kim Đâu rồi theo sông Hiếu mà vào Thạch Hãn để lên bến Chợ Sãi. Nguồn hàng từ
Bắc vào Cửa Việt, nguồn hàng từ Ba Lòng qua Trấm đổ xuống đều do đường sông Thạch Hãn mà đến Chợ Sãi. Có
lẽ thời tướng Đoàn Nhữ Hài (1307) của nhà Trần vào thiết lập guồng máy cai trị hai châu Ô, Lý có lẽ chưa ai biết
Huế ở đâu, nhưng đến thời vua Lê Thánh Tông thì thuỷ lộ Chợ Sãi, Ba Bến, Ngô Xá, Thanh Hương, phá Tam Giang,
thì Bao Vinh là một chợ Sãi của châu Thuận. Huế lúc bấy giờ chắc chắn là một thủ phủ văn hoá, nên vua Lê Thánh
Tông đã đặt Huế bên cạnh Lào như một cặp địa danh đối xứng có tầm quốc gia và thao Lào, thóc Huế là những
mặt hàng quan trọng có mặt trên địa bàn châu Hoá, châu Thuận của Đại Việt thời vua Lê Thánh Tông.
Quả thật bản tường trình của vua Lê Thánh Tông có một căn bản địa lý lịch sử khi nhắc đến chi tiết thao Lào,
thóc Huế rất đáng cho hậu thế tin tưởng. Vậy thì tại sao cứ phải gọi Huế là do Hoá trong Thuận Hoá nói trại ra. Và
tại sao cứ phải tìm các chữ Hoá trong văn liệu của các nhà ký sự Tây phương viết ra sau thời vua Lê Thánh Tông
156 năm, rồi quả quyết rằng Huế là do Hoá mà có? Dĩ nhiên tính cho đến nay [năm 2000], Huế chưa có tuổi thọ một
ngàn năm như hai tác giả Nguyễn Châu và Đoàn Văn Thông tuyên bố [Ngàn Năm Xứ Huế], nhưng địa danh Huế có
quyền xác lập một thời điểm trong lịch sử. Chúng tôi nghĩ rằng địa danh Huế đã ra đời ít ra là trong hạ bán thế kỷ XV,
đồng thời với vua Lê Thánh Tông (1442 - 1497).
Một địa danh bao giờ cũng có mốc thời gian khai sinh tương đối của nó. Thành Quảng Trị không nằm gần địa
thế làng Cổ Thành. Thế nhưng trong cuộc chiến năm 1972, nhiều người lầm tưởng rằng Cổ Thành chính là thành
Quảng Trị trong đó có Bộ Chỉ Huy Tiểu khu Quảng Trị trấn đóng. Làng Cổ Thành có tuổi thọ cao hơn, lại nằm xa
thành Quảng Trị hơn một cây số về hướng đông nam, trên một vị trí gần chợ Sãi, nơi đây có dấu tích một thành trì
của người Chăm từ xa xưa, ít ra là trước năm mậu ngọ, 1558, lúc Nguyễn Hoàng vào Aí Tử để bình định đất Thuận
Hoá và ổn định việc trị an cho cả vùng Thuận Quảng là giang sơn của nhà Lê. Cũng vậy, các làng có tên như Trung
Kiên, Hữu Kiên, Tả Kiên, Tiền Kiên, Hậu Kiên bao quanh ÁiTử, chắc chắn phải ra đời sau năm 1558, vì những địa
danh này chính là tên các đơn vị quân sự của chúa Tiên Nguyễn Hoàng. Và cư dân các làng vừa kể đa phần là gia
đình của quân bình có gốc từ Thanh Hoá, Nghệ An…đã theo chúa Nguyễn vào Nam cuối năm 1558.
Như vậy, phải nói rằng địa danh Huế đã có trước khi vua Lê Thánh Tông ghé đến Thuận Hoá, ít ra là trước
năm 1497. Việc xoá khai sinh của một địa danh, khi chưa cố gắng tìm ra chứng liệu khả tin trong kho tàng văn hoá,
lịch sử dân tộc; nhận những dòng ký sự của người Tây phương như chứng liệu duy nhất và căn bản là một việc làm
thiếu thận trọng, nếu không muốn nói là quá vọng ngoại. Dầu sao, về điểm này rất cần ý kiến của các bậc thức giả
quan tâm đến văn hoá và lịch sử của từng địa phương.
Cuối cùng, nhân nói đến tộc họ (last name) của người dân Quảng Trị, chúng tôi có người bạn tên là Ngô
Ngọc Ch., nhưng anh nói anh là con cháu họ Mạc. Mới nghe chúng tôi không tin. Về sau đọc lại lịch sử thấy có những
sự kiện thay tên đổi họ xảy ra, hoặc do cưỡng bức, hoặc sợ di lụy về các bản án, nên phải cải sang các họ khác để
mong được yên thân. Chẳng hạn năm 1232, Trần Thủ Độ đã buộc người họ Lý phải đổi thành họ Nguyễn. Năm
1435, vua Lê Thái Tông (trị vì 1434-1442) có bà mẹ tên là Phạm Thị Ngọc Trần, nên đã ra lệnh cho ai mang họ Trần
phải cải thành họ Trình. Họ Mạc, năm 1594, theo lời trăn trối của tướng Mạc Ngọc Liễn nói với Mạc Kỉnh Cung rằng:
“Họ Lê lại trung hưng, đó là số trời. Còn như nhân dân ta là người vô tội sao lại nỡ để cho dân mắc vào vòng mũi
tên hòn đạn lâu mãi như vậy? Chúng ta nên lánh ở nước khác , cốt phải cẩn thận giữ gìn, đừng lại cố sức chiến
đấu với họ nữa. Lại dứt khoát chớ có đón rước người Minh kéo sang nước ta để đến nỗi dân ta phải lầm than
khốn khổ…”Họ Mạc từ đó không đánh nhau với họ Lê nữa mà cải thành nhiều tên họ khác. Nhưng một số còn muốn
giữ lại chút liên hê với tổ tiên nên đã giữ lại chữ lót như trong trường hợp dòng họ Nguyễn Đăng. Trường hợp bạn
tôi là Ngô Ngọc, có phải là đã do nhánh Mạc Ngọc chăng? Có người họ Mạc đã đổi cả họ lẫn chữ lót, đó là con trai
của Mạc Cảnh Huống (em vua Hiển Tông Mạc Phúc Hải) tên là Mạc Cảnh Vinh, người đã tình nguyện vào Nam giúp
Nguyễn Hoàng năm 1558. Mạc Cảnh Vinh đã cải theo họ Nguyễn, lấy danh tính là Nguyễn Hữu Vinh. Dĩ nhiên Nguyễn
Hữu chỉ là một chi của tộc họ Mạc.
Theo một truyền thuyết, các dòng họ Đỗ, họ Thái cũng là từ dòng họ Mạc phát sinh. Lại có trường hợp, khi bị
buộc bỏ họ Trần đổi sang họ Trình, một số người họ Trần không nhận họ Trình mà tự chọn một họ mới đó là họ Bùi.
Theo lối chiết tự, chữ Bùi do chữ PHI và chữ Y ghép lại. PHI Y là không áo, không áo là Trần [ở trần]. Không hiểu họ
Bùi làng An Lộng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị có nằm trong trường hợp này không? Vì ở làng An Lộng, người
mang họ Bùi và họ Trần chiếm đa số dân cư trong làng.
Tướng nhà Mạc là Lập Bạo tính chuyện lập công danh mau chóng, nên đầu mùa thu năm nhâm thân, 1572, lấy
người ở Bắc Bố Chính, kéo binh thuyền hơn 60 chiếc theo đường Hồ Xá đến đóng quân ở chùa Thanh Tương, xã
lãng Uyển, phủ Triệu Phong, toan mở cuộc tập kích vào đạo quân của chúa Nguyễn Hoàng mới gầy dựng, đóng ở
gần sông Ái Tử. Biết được âm mưu này, nhưng không biết phải đương cự sa sao. Bỗng trong đêm khuya nghe từ
dòng sông có tiếng kêu “trao trao”, liền khấn “thần sông có thiêng thì giúp ta đánh giặc”. Trong giấc ngủ lại thấy một
người đàn bà mặc áo xanh, tay cầm quạt the, trình rằng; “Minh quân muốn trừ giặc thì nên dùng mỹ kế, dụ giặc đến
bãi cát, thiếp xin giúp sức”. Trong đám thị nữ có Ngô Thị (tên gọi là Ngọc Lâm, người làng Thế Lại, có tên nữa là Thị
Trà) có sắc đẹp và mưu cơ biện bác. Chúa sai nàng đem vàng lụa đi dụ Lập Bạo tới chỗ sông có tiếng kêu “trao
trao” để giết. Ngô Thị đến trại Lập Bạo nói rằng: “Chúa công thiếp nghe tin tướng công ở xa đến, cho thiếp mang
quà mọn để cùng giảng hoà, đừng đánh nhau nữa”. Lập Bạo thích sắc đẹp của Ngô Thị, nhưng giả cách giận, nói
rằng: “Ngươi lại đây làm mồi dử ta chăng?”. Ngô Thị uyển chuyển thưa gửi, Lập Bạo liền tin và giữ lại trong trướng.
Ngô Thị nhân đấy mời Lập Bạo đến bờ sông để cùng chúa họp thề. Lập Bạo nghe lời. Ngô Thị đem việc ấy mật báo
trước. Chúa lập tức dựng một ngôi đền tranh ở bên bờ sông, chỗ có tiếng kêu “trao trao” để làm nơi họp thề và đào
hầm đặt phục binh. Đến hẹn, Lập Bạo cùng Ngô Thị ngồi thuyền nhỏ, chỉ vài chục người theo hầu. Khi đến bến, thấy
dưới cờ chúa cũng chỉ có vài chục người thôi. Lập Bạo thản nhiên không ngờ, bèn lên bờ thong thả bước đến cửa
đền. Thình lình phục binh nổi dậy. Lập Bạo sợ chạy xuống thuyền, thuyền đã xa bãi rồi. Lập Bạo nhảy theo, rơi xuống
nước, quân ta bắn chết ngay, rồi thừa thắng tiến đến trại Thanh Tương. Gió to nổi lên, thuyền giặc đắm hết. Quân
giặc đem nhau đầu hàng. Chúa cho ở đất Cồn Tiên, đặt làm 36 phường…”. Chắc chắn con cháu họ Mạc và bại binh
người Bắc Bố Chính, kể ra không ít trong số cư dân ở Cồn Tiên, tức tổng Bái Ân ở gần cửa Tùng, tỉnh Quảng Trị
ngày nay.
Từ truông Nhà Hồ, chúng tôi đã tản mạn đi vào Quảng Trị.
Thương em anh cũng muốn vô
Sợ truông nhà Hồ
Sợ phá Tam giang
Phá Tam giang ngày rày đã cạn
Truông nhà Hồ nội tán cấm nghiêm…
Kể ra quan Nội Tán kiêm Án Sát Sứ Nguyễn Khoa Đăng đã thành công trong việc diệt được bọn thảo
khấu hoành hành lâu đời ở truông Hồ Xá, phủ Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị để hậu thế thấy rõ được sự uy dũng của một
vị võ quan, vang lừng thanh thế khắp vùng trấn nhậm chốn sơn phòng heo hút.
Ngày nay truông nhà Hồ không còn nữa. Từng doi đất của phá Tam giang cũng bị xé ra từng mảnh. Nhà cửa,
đất thâm canh của phá Tam giang bị trục ra biển đông sau trận lũ lụt cuối năm 1998. Chiến tranh, thiên tai và nhất là
sự qui hoạch bừa bãi đã làm biến mất nhiều cảnh trí thiên nhiên tuyệt vời ở Quảng Trị hôm qua.
Chú thích:
1 Bài viết cho Đặc San Xuân Tân Tỵ, 2001, của Hội Đồng Hương Quảng Trị vùng Hoa Thịnh Đốn
(Washington D.C.)
1. Kẻ Huế. Giáo sư Hoàng Nhân trong bài Sáu thế kỷ thơ văn Huế - Bình Trị Thiên trong Tuyển tập
Thơ Văn Huế - Bình Trị Thiên, do Giáo sư Trần Thanh Đạm và Giáo sư Hoàng Nhân biên soạn,
Nhà xb Tp HCM ấn hành năm 1991, có xác nhận: “Cuối thế kỷ XV địa danh Huế xuất hiện lần đầu
tiên trong áng văn nôm “Thập giới cô hồn” thời Lê Thánh Tông. Từ Huế là do từ Hoá trong từ ghép
Thuận Hoá đọc theo giọng địa phương mà thành quen”(tr 12). Ở một chỗ khác, Giáo sư Hoàng
Nhân lặp lại: “Văn học viết có thể bắt đầu từ giữa thế kỷ XV với áng văn nôm”Thập giới cô hồn quốc
ngữ văn” của vua Lê Thánh Tông, áng văn nôm đầu tiên của nước ta” (tr 17). Câu của vua Lê Thánh
Tông được ghi lại trong “Thơ Văn Lê Thánh Tông”của Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Nxb Khoa Học
Xã Hội, Hà Nội, 1981, nguyên văn như sau: “Hương kỳ nam, vảy đồi mồi, búi an tức, bị hồ tiêu,
thao Lào, thóc Huế, thuyền tám tầm chở đã vạy then”.
2. Trong một lần thân chinh đánh Chiêm Thành, vua Lê Thánh Tông đã dừng chân ở cửa Tư Hiền, huyện
Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên. Tại đây ngài đã để lại bài thơ Tư Dung Hải Môn Lữ Thứ, trong tập thơ
Minh Lương Cẩm Tú (khoảng 1470-1471 của nhóm Nhị Thập Bát Tú).
Lâu thuyền kích cổ đáo Ô Long
Bách nhị quan hà thử yếu xung
Liệt chướng huyền nhai thanh sốc sốc
Kê thiên bạc lãng bích trùng trùng
Tiên triều sự nghiệp truyền di tích
Nam quốc dư đồ nhận cựu phong
Nạp cấu tàng ô hả hải lượng
Nhân gian vô xứ bất triều tông.
Bản dịch của GS Trần Thanh Đạm như sau:
Thuyền lầu khua trống đến Ô Long
Bách nhị quan hà đây yếu xung
Giáp bãi núi cao xanh ngắt ngắt
Tiếp trời sóng vổ biếc trùng trùng
Triều xưa sự nghiệp còn di tích
Nước Việt dư đồ nhân cựu phong
Lương bể chẳng từ gì cáu bẩn
Sông ngòi đâu cũng hướng về đông.
3. Đại Nam Thực Lục (Tiền Biên), Quốc Sử Quán Triều Nguyễn, Nhà Xuất Bản Giáo Dục, Hà Nội, 2001,
q. 1, tt 30-31.
Hoàng Đình Hiếu